Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến
Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu.
Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài: “Thu vịnh”, “Thu ẩm” và
“Thu điếu”. Bài thơ nào cũng hay cũng đẹp cho thấy một tình quê dào
dạt. Riêng bài “Thu điếu”, nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là “điển
hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. “Thu điếu” là bài
thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc : Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu
thiên nhiên, yêu mùa thu dẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha
thiết.
“Thu điếu” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Ngôn
ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp
của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt
vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo”
tỏa hơi thu “lạnh lẽo” . Sưong khói mùa thu như bao trùm cảnh vật.
Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở nên
“lạnh lẽo”. Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu
rất bé nhỏ – “bé tẻo teo”. Cái ao thuyền câu là hình ảnh rung tâm
của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê
nhà. Theo Xuân diệu cho biết vùng đất đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà
Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền
câu cũng theo đó mà “bé tẻo teo”:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.
Các từ ngữ: “lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo” gợi tả đường nét,
dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ
như tiếng thu, hồn thu vọng về.
Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài ba làm rõ
thêm cái hồn của cảnh thu:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo”.
Màu “biếc” của sóng hoà hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh
quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu
luyện: “lá vàng” với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng
với mức độ “tí” của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ngợi ca chữ
“vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình
may ra mới có được câu thơ vừa ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu”:
“vèo trông lá rụng đầy sân”.
Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm
chiều cao của bầu trời “xanh ngắt” với “những tầng mây lơ lửng”
trôi theo chiều giớ nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận
diện sắc trời thu là “xanh ngắt”:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” (Thu vịnh)
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Thu ẩm)
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu)
“Xanh ngắt” là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (xám) mà
xanh ngắt, thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của
không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá.
Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như bà
con dân làng đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng. Mọi con đường
quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá
như đang chìm trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước
“ao thu lạnh lẽo” đến “ngõ trúc quanh co” hiện lên với đường nét,
màu sắc, âm thanh,… có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác nhưng
rất gần gũi, thân thiết với mọi con người Việt Nam. Phong cảnh
thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!
Cái ý vị của bài “Thu điếu” là hai câu kết:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
“Tựa gối ôm cần” là tư thế của người câu cá, cũng là một tâm thế
nhàn, thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh “cá đâu đớp động”, nhất là
từ “đầu” gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây
chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân
nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực
dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà
nho thanh sạch trốn đời đi ở ấn. Đang ôm cần câu cá nhưng tâm hồn
nhà thơ như đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh
trở về thực tại khi “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Cho nên cảnh
vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà
thơ vậy: buồn cô đơn và trống vắng.
Âm thanh tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” đã làm nổi bật khung
cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt
với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn
tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời an ủi
ở thiên nhiên, ở sắc vàng của lá thu, ở màu “xanh ngắt” của bầu
trời thu, ở làn “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”…
Thật vậy, bài thơ “Câu cá mùa thu” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình
đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả
bằng những gam màu đậm nhạt, nhưng nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm.
Âm thanh của tiếng lá rơi đưa “vèo” trong làn gió thu, tiếng cá
“đớp động” chân bèo – đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng
quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê
hương đất nước.
Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần “eo” đi vào
bài thơ rất tự nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người
đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta: trong veo –
bé tẻo teo – đưa vèo – vắng teo – chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã
từng viết: “Cái thú vị của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao,
xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu xanh
vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”
Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu,
yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông là nhà thơ
của làng cảnh Việt Nam. Đọc “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”, chúng
ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đất
nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu
quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một
địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.