PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN – PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TÂY TIẾN
Đề bài: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
(Muốn phân tích hay cần hiểu được hoàn cảnh ra đời của bài thơ Tây
Tiến)
Bài làm 1:
Tôi đã được nghe nhiều về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng nhưng gần
đây mới được thưởng thức trọn vẹn cả bài thơ. Và tự như một thỏi
nam châm bằng chất nhạc kỳ diệu, bằng hòa khí cách mạng sôi nổi…Tây
Tiến đã cuốn hút tôi một cách khác thường.
Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài
người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng
Tây Tiến của Quang Dũng vẫn có một gương mặt riêng thật khó quên,
mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch
sử đấu tranh anh dũng của dân tộc.
Tây Tiến không có một sáng tạo gì khác thường, đốt xuất mà vẫn là
sự tiếp tục của dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào
một hồn thơ rất mới và rất trẻ khác hẳn với những tiếng thơ bi lụy,
não nùng trước đó. Tây Tiến nhắc nhở một thời gian khổ và oanh liệt
của lịch sử đất nước nhưng được thể hiện theo cách riêng đặc đắc
qua ngòi bút Quang Dũng với tâm trạng cụ thể: nỗi nhớ đồng đội
trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ máu thịt và niềm tự
hào chân thành của Quang Dũng về những người đồng đội của ông là âm
hưởng chủ đạo của bài thơ, khiến cho người đọc cảm động sâu
xa.
Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ da diết, trải rộng cả không gian và
thời gian mênh mông.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Tác giả nhớ về những ngày ở Tây Tiến, nhớ những người đồng đội và
nỗi nhớ ấy đã thốt lên thành lời gọi. Văn học ta có nhiều câu thơ
diễn tả nỗi nhớ…nhưng “nhớ chơi vơi” thì có lẽ Quang Dũng là người
đầu tiên mạnh dạn sử dụng. Nỗi nhớ ấy gợi xa về cả không gian, thời
gian và tầm cao nữ, nỗi nhớ như có dáng hình bềnh bồng, bềnh bồng.
Quang Dũng viết bài thơ này khi mới xa đoàn quân Tây Tiến, xa mà
không hẹn ước, không biết ngày gặp lại. Cảm giác về thời gian trải
dài tạo nên nỗi “nhớ chơi vơi”, bâng khuâng khó tả.
Rồi cứ thế, nỗi nhớ đồng đội ấy lan tỏa, thấm đượm nồng nàn trên
từng câu thơ, khổ thơ. Có lẽ nói bài thơ được xây dựng trên cảm
hứng thương nhớ triền miên với bao kỷ niệm chống chất, ào ạt xô
tới:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Sài Khao, Mường Lát, những địa danh rất Tây Bắc cũng góp phần gợi
nỗi nhớ chơi vơi. Hình ảnh Tây Bắc được hiện lên trong câu thơ thật
mịt mù và cải mệt mỏi của đoàn quân như lẫn vào sương. Bên cạnh cái
gian khổ lại có một cái rất thơ, dường như huyền thoại:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Câu thơ rất độc đáo, hoa về chứ không phải hoa nở, đêm hơi chứ
không phải là đêm sương. Hoa hiện ra mờ mờ trong sương, trong màn
sương vẫn cảm thấy hoa. Câu thơ đẹp, huyền ảo, lung linh quá! Đọc
đến đây, cái “mỏi” của đoàn quân dường như đã tan biến hết. Quang
Dũng thật tài tình khi viết một câu thơ hầu hết là thanh bằng nhẹ
nhàng, lâng lâng, chơi vơi như sương, như hoa, như hồn người, khác
với:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Những câu thơ giàu chất tạo hình như vẽ lại được cả chặng đường
hành quân đầy gian khổ, khó khăn. Tác giả không viết súng chạm trời
mà là “súng ngửi trời” rất sinh động, nghịch ngợm, thông minh, hóm
hỉnh.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ ngắt nhịp ở giữa gợi hình ảnh dốc rất cao, rất dài nhưng
ngay sau đó lại là một câu thơ toàn vần bằng. Xuân Diệu trước đây
cũng chỉ viết được hai câu toàn vần bằng mà ông rất tâm đắc:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.
Còn Quang Dũng trong Tây Tiến đã có khá nhiều câu thơ hầu hết là
vần bằng, chất tài hoa của ông bộc lộ ở đó.
Tây Tiến đặc tả cận cảnh. Con người và cảnh vật rừng núi miền Tây
Tổ quốc được tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích
thước có phần phóng đại khác thường. Trong khổ thơ thứ nhất này
từng mảng hình khối, đường nét, màu sắc chuyển đổi rất nhanh, bất
ngờ trong một khung cảnh núi rừng bao la, hùng vĩ như một bức tranh
hoành tráng. Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” k không thể
nói rõ mà chỉ cảm nhận bằng trực giác. Nếu “thơ là nơi biểu hiện
đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kỳ ảo của ngôn ngữ” thì câu thơ
này cũng đúng như vậy.
Thiên nhiên trong Tây Tiến cũng như trong thơ Quang Dũng bao giờ
cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm
tình người. Hồn thơ tinh tế củ tác giả bắt rất nhạy từ một làn
sương chiều mỏng, từ một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt,
rồi ông thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một nỗi niềm
bâng khuâng thương mến và một áng thơ đẹp:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở Tây Tiến thật hoang sơ, kỳ vĩ.
Trên cái nên thiên nhiên dữ dội có hình ảnh đoàn quân Tây Tiến thật
nhỏ bé nhưng chính sự đối lập tương phản đó càng làm tăng khí phách
anh hùng, kẻ thù cũng như gian khổ không gì khuất phục nổi.
Trên đường hành quân đã có những người lính hy sinh. Tác giả không
ngần ngại nói đến cái chết:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Quang Dũng là một nhà thơ xuất thân tiểu tư sản nên ông miêu tả cái
chết cũng rất lãng mạn. Hình ảnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời” vừa
gợi thương nhưng cũng rất bình thản. Những chiến sỹ Tây Tiến là
những thanh niên Hà Nội chưa quen chuyện gươm súng gian khổ và họ
đã ngã xuống sau những dãi dầu sương gió. Hình như tác giả không
muốn người đọc chìm sâu trong cảm giác xót thương nên ngay sau đó
là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.
Biết bao nhiêu điều đe dọa sinh mạng người lính. Câu thơ nói về
những hiểm nguy ấy với giọng điệu ngang tàng, coi thường, xóa đi sự
bi lụy của cảm xúc ở câu trên. “Cọp trêu người” – có một cái gì đó
rất nghịch ngợm, rất lính.
Trong trường ca Từ đêm mười chín của Khương Hữu Dụng cũng có những
câu nói về gian truân, nguy hiểm mà người lính phải gánh
chịu:
Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác Không Tên
Có suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường chim.
Nhưng không mạnh mẽ bằng Tây Tiến.
Và đằng sau những trắc trở ấy lại là cảnh thanh bình, yên ấm:
Ôi nhớ Tây Tiến cơm nên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Câu thơ gợi cảm giác nồng nàn, no nê, đầy đủ những kỷ niệm đơn sơ,
nhỏ bé trong cuộc sống đời lính thường ngày cũng hóa thành gần gũi,
ấm lòng. Hương thơm ấy không chỉ là hương “nếp xôi” mà còn là hương
từ đôi bàn tay em – cô gái Mai Châu.
Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến gian khổ, hy sinh nhưng không
bi lụy, mà vẫn hùng, vẫn thơ. Tác giả sử dụng những từ ngữ, hình
ảnh, âm thanh mwois mẻ, gợi cảm và có chút lãng mạn.
Tác giả chuyển mạch cảm xúc rất tự nhiên, nói những kỷ niệm đẹp
trong cuộc sống với cảnh, người, tình quân dân đầm ấm, khó
quên:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
“Hội đuốc hoa”, “xiêm áo” gợi cái gì về đếm cưới ngày xưa và có vẻ
“e ấp” của “nàng” làm cho câu thơ thêm gợi cảm. Câu thơ lâng lâng,
dìu dặt như tiếng khèn đưa người về một nơi rất xa.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Câu thơ có tính chất hư ảo, hình ảnh hoa lau gợi nhớ đến bài thơ
Lau mùa thu của Chế Lan Viên:
Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng.
Quang Dũng không chỉ là một người tài hoa mà còn rất hào hoa khi
ông viết:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Câu thơ: “Có nhớ dáng người trên độc mộc” rất giàu chất tạo hình.
Nhà thơ yêu đất nước, yêu đến từng dòng suối, dáng người, cánh hoa.
Nếu không có chất thơ ấy cuộc đời sẽ mất đi nhiều ý nghĩa, có chất
thơ ấy gian khổ sẽ trở thành hào hùng.
Khổ thứ tư, tác giả trở lại với những gian khổ hy sinh của người
lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Đọc những câu thơ này tưởng như ứa nuwocs mắt vì thương cảm. Những
người lính bị sốt rét rụng hết cả tóc, người “xanh tàu lá”. Và
những nguwoif lính dũng mãnh ấy, tâm hồn cũng thật dịu hiền và lãng
mạn:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Nhà thơ dùng từ rất tài hoa “kiều thơm” để chỉ những cô gái đẹp của
Hà Nội. Giữa chiến trường miền Tây vô cùng khốc liệt, nếu người
lính không biết mơ mộng, thi vị hóa cuộc sống về mục đích cao xa
hơn thì sẽ gục ngã trong hiện thực đầy khắc nghiệt ấy. Chất men
lãng mạn, vượt lên trên hoàn cảnh. Do vậy, dù miêu tả rất đậm sự
gian khổ, khốc liệt của chiến trường, của người lính chinh chiến mà
bài thơ không đượm chút sắc bi quan, u ám nào khiến con người run
sợ, nản lòng.
Hơn một lần trong bài thơ tác giả nói về cái chết:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Với lòng yêu nước nồng nàn, cả một thế hệ người con ưu tú của dân
tộc đã ra đi bảo vệ Tổ quốc. Không phải họ không biết đến những hy
sinh, mất mát nhưng vẫn vui vẻ ra đi, không tính toán hơn thiệt mặc
dù mắt vẫn nhìn thấy những nấm “mồ viễn xứ” nằm “rải rác biên
cương”. Lý tưởng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho các chàng trai
Tây Tiến chất ngang tàng anh hùng và cả chất men say lãng mạn đáng
yêu nữa, ngay cả khi đối mặt với cái chết cũng phảng phất nét nghệ
sỹ tài tử, anh hùng hảo hán thời xưa, coi cái chết “nhẹ tựa lông
hồng”, “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái chết của người
lính là cái chết bi tráng chứ không bi lụy, mềm yếu. Đã có một thời
nguwoif ta tránh nói về cái chết, về những mất mát. Nhưng có chiến
thắng nào mà không trả giá bằng máu và nước mắt. Và “không có gì
cao cả hơn một nỗi đau buồn lớn (An-phrêt-đơ Muyt-xê).
Nét đặc sắc của Tây Tiến là nói về chiến tranh mà không có một chữ
đánh và có ba lần miêu tả cái chết, nhưng Quang Dũng nói một cách
rất giản dị: “bỏ quên đời”, “về đất”, “hồn về” để bình thường hóa
cái chết. Chúng ta có nhiều bài thơ nói về cái chết của người lính
như Nấm mồ và cây trầm của Nguyễn Đức Mậu:
Cái chết bay ra từ nòng súng quân thù
Nhận cái chết cho đồng đội sống
Ngực chắn lỗ châu mai, Hùng đứng thẳng
Đồng đội xông lên nhìn thấy Hùng cười.
…Hùng nằm trong nôi của đất rộng còn nhiều nữa nhưng chưa bài nào
sánh nổi Tây Tiến. Quang Dũng chỉ bằng vài dòng thơ đã khắc họa
thật sâu và xúc động về cái chết vừa bi thiết vừa hùng tráng, mà
xiết bao cao cả của người chiến sỹ. Để tiễn đưa người lính vô danh
ra đi tác giả không cần một lời ngợi ca, cũng không cần một giọt
nước mắt xót thương. Ông chỉ để cho trời đất chứng giám và thu nhận
thể xác linh hồn người lính vào lòng. Nhưng những người lính ấy
không hề chết, mà còn sống mãi trong lòng chúng ta:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Những người lính hiểu rằng cuộc chiến đấu còn dài có thể họ sẽ ngã
xuống vì Tổ quốc “đi không hẹn ước”. Con đường trở về không biết
đến bao giờ nhưng người lính không buồn nản. Điều đó biểu hiện chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Họ ra đi mang theo cả
nỗi nhớ của người ở lại.
Bốn mươi ba năm đã trôi qua, kể từ ngày Tây Tiến ra đời. Vượt qua
sức cản phá của thời gian, Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ chúng ta
hôm nay, gợi nhớ về “những năm tháng không quên” trong lịch sử dân
tộc. Có thể nói Tây Tiến là “một tượng đài bất tử” về người lính vô
danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng cả tâm hồn mình để tưởng niệm
một thế hệ thanh niên đã hăng hái, anh dũng ra đi mà nhiều người
trong số họ không về nữa. Tây Tiến in đậm một phong cách thơ Quang
Dũng, tài hoa, độc đáo.
(Bài của Vũ Thị Thu Hương – Học sinh trường THPT Công Nghiệp A – Hà
Tây)
·Nhận xét:
Có năng lực cảm thụ thơ rất tốt nên đã phân tích được một cách sâu
sắc tình cảm và những cảm hứng thẩm mỹ của Quang Dũng đối với những
người lính Tây Tiến.
Biết tập trung vào những hình ảnh đặc sắc, những ý thơ độc đáo,
những ngôn từ thơ xuất thần để làm nổi bật chủ đề, không dàn trải,
tham lam. Giọng điệu bài văn thích hợp với chất (phong cách) thơ
Quang Dũng: Sôi nổi, lắng đọng, xúc động, hào hứng.
BÀI LÀM 2:
“Có một bài ca không bao giờ quên…”
Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên,
không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai
sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, khi toàn
dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với tất cả sức lực,
niềm say mê. Chúng ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì
thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 45 vẫn còn,
rất đậm, trong mỗi người Việt Nam. Tự do hay trở về cuộc đời cũ?
Đấy là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do,
những người nông dân, công nhân, học sinh, những người mẹ, người
chị tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời
đại.
Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã
ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào
khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là
người chiến sỹ cụ Hồ. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng cũng ra đời
trong hoàn cảnh chung đó.
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh năm 1948 khi Quang Dũng đã
chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng sống và chiến đấu ở đoàn quân
Tây Tiến là những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết,
cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả
nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về
cái âm u hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người
lính Tây Tiến.
Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội. Quang
Dũng cũng như đồng đội tác giả trở thành người lính. Kỷ niệm làm
người lính Tây Tiến đã xa mà lại gần, để khi trở lại, tác giả phải
bật lên:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng với âm hưởng của vần ơi,
tạo nên xúc cảm lớn. Hành ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang
vọng dến đoàn quân Tây Tiến? Không! Đó là tiếng long của tác giả
“Xa rồi Tây Tiến ơi” nhưng tấm lòng thì vẫn thiết tha lắm! Âm hưởng
câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy sâu
vào tâm hồn người đọc. Người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu
mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi!” Hình như trong ca dao
ta cũng bắt gặp:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình, khó nắm bắt đã diễn
tả bằng lời. Nỗi nhớ ấy bao la, bát ngát lại có chiều sâu. Nói muốn
tràn ra khỏi không gian để xoáy vào lòng người. Một người ngoài
cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng
của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với tấm lòng tha thiết thì hẳn
nỗi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lý. Cũng sử dụng vần “ơi!”
câu thơ có sức lan tỏa rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi
vơi” của tác giả.
Thông thương thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến
những kỷ niệm đẹp để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên
là nhớ về rừng núi.
Nhớ về rừng núi…
Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng
chiến đấu. Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao niềm vui nối buồn của
người chiến sỹ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả
nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm
trải:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mấy súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải điều nhà thơ chú trọng phác
họa nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng có những câu thơ:
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm
Mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn.
Tố Hữu mô tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế.
Quang Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi
nhưng qua cảnh đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống
giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa danh xa lạ “Sài Khao”,
“Mường Lát”, “Pha Luông” rừng núi như càng trở nên xa ngái, hoang
vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn
là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi,
nhiều người còn là học sinh nên cảnh rừng núi càng xa lạ, đáng sợ
hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất
rõ.
Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp
nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi
mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng
năm tháng cũng như rừng sương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ
in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải
hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi
trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu
vần bằng:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi. hơi.
Câu thơ ấy đã xóa đi cái mệt mỏi của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn
quân tiếp bước. Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi
qua:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống.
Câu thơ với “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó
khăn quá! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn,
dài ra theo tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường
dốc ấy. “Súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn mây” đã gợi lên
một không khí vắng vẻ, hoang sơ của rừng núi, súng ngửi trời cộng
thêm vào cái vẻ đơn độc của người lính giữa đèo cao.
Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi câu thơ
vần bằng tiếp sau:
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.
Cứ như thế, những câu thơ vần bằng xen giữa những câu thơ vần trắc,
âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt
bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo
nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ.
Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi, của thiên nhiên
hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy
người lính sống như thế nào nhỉ?
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịc cọp trêu người.
Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn
quân Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng
người bi quan mà chỉ để ngợi ca người lính. Tác giả lại tiếp tục
đưa ta đến với người lính bằng ngòi bút rất thực ấy. Trước gian
khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để
không bao giờ tỉnh dậy:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa.
Nhưng anh hùng làm sao, những con người ngã xuống ấy! Người lính
không chịu nỗi khổ hy sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế
chết của người chiến sỹ:
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương
khi người lính lìa trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắc là hình ảnh
“gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng
quân về sau:
Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng.
Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân
trong kháng chiến chống Mỹ thì dáng ngã xuống gục xuống của anh
lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của
đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục
lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những
người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng
đội anh lại tiếp bước.
Những khó khăn lại đến:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.
Hình như ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang
Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm.
Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi
con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn cũng
như tăng lên gấp bội. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn
chẳng thể mất dọc cuộc hành trình:
Ôi nhớ Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Quang Dũng lại nhớ về những kỷ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp
điệu câu thơ như có gì náo nức, rộn rã:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Nguwoif đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến
mất đi sau những kỷ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch
ngợm vui tươi của những chàng trai thanh niên Hà Nội xúng xính giả
làm con gái cùng tiếng nhạc và vẻ e ấp giả vờ, câu thơ với hai chữ
“kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của
người chiến sỹ. Những kỷ niệm vui đó hẳn sẽ không quên trong lòng
người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng
với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng
mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng
người trên độc mộc vào một buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa
trên dòng nước lũ…tất cả đi vào nhẹ nhàng ch cho cả đoạn thơ.
Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ
niệm Tây Tiến vẫn còn nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải khắp bài
thơ nhưng đọng nhất vẫn là nỗi nhớ về người lính Tây Tiến. Có lẽ
người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt
của tác giả:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng
bởi tên gọi “Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn
mà người lính thường mắc phải. sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn
một vài sợi tóc lưa thưa, đến nỗi da xanh xao “màu lá”.
Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính, khi Quang Dũng
nói về điều này, tác giả muốn nói cho ta biết, người lính Tây Tiến
sống như thế đấy! Họ sống và chiến đấu với cả gian khổ, cả bệnh tật
nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn:
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Nét dữ tợn của người chiến sỹ Tây Tiến ở đây không làm nhạt tí nào
hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng
chừng làm người chiến sỹ yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ
oai hùm” làm mất đi sự yếu đuối của “đoàn quân không mọc tóc” và
của “quân xanh màu lá” giúp cho câu thơ trên tiếp tục:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính
Tây Tiến và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người
lính Tây Tiến sống với hình ảnh quê hương Hà Nội, chiến đấu với
tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng mạn của người
chiến sỹ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính “trừng” nhưng không hề
mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến
đấu cho Tổ quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người.
Nhưng người lính không đánh mất đi nét đẹp tâm hồn: sự mộng mơ. Hai
câu thơ trên có thời đã bị đem ra chỉ trích cùng với bài thơ đó là
buồn rớt, bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng câu thơ có thoáng nét
buồn cũng như bài thơ có thoảng những nét buồn: nhưng buồn ở đây
đâu có làm mất đi quyết tâm của người lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh
giặc và lãng mạn phải kết hợp hài hòa mới có thể tạo nên vẻ đẹp tâm
hồn người chiến sỹ một cách sâu sắc. (Đây là điểm mà đã có một thời
vì hoàn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta đã quên đi hay
cố tình quên đi). Người lính Tây Tiến chiến đấu cho ai? Mục đích
của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ thể là Hà
Nội. Người lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính
những mộng mơ ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho người chiến sỹ sống và
chiến đấu. Hai câu thơ chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng!
Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân
bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì
đau ốm, bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ.
Câu thơ đọc lên mà sao thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không
người qua lại, chẳng bao giờ trở về. Từ “rải rác” làm ta cảm giác
người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến
đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những người phải từ giã
cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừng núi,
gợi lên sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống, xoáy
vào lòng ta một nỗi buồn không thể thốt lên lời, ta tưởng chừng như
câu thơ sau không thể cất lên nổi, nhưng ngược lại:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ nhẹ nhàng như không hề mang chút gì bi thảm của những nấm
mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi” câu thơ sau tạo nên nét
“tráng”. Cái không khí bi quan biến mất, chỉ còn lại nét ngang
tang, chút thanh thản của người lính Tây Tiến “chẳng tiếc đời xanh”
là cách nói của người thanh niên trí thức Hà Nội nhưng cũng mang cả
quan niệm về lý tưởng chiến đấu, người lính biết rằng họ còn trẻ,
họ chiến đấu có thể bị hy sinh. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi
trẻ. Không phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn tuổi
trẻ họ còn có tự do, quê hương. Con người hậu phương gửi gắm cả nỗi
lòng của họ. Đó là lý tưởng tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc
đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi
mãi mãi nhưng anh ra đi là do lẽ sống của mình mình sống mãi
nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất” ngoài ý nghĩa làm giảm
sự đau thương? Quang Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào
rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng
mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là lý do tác
giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người lính Tây
Tiến. Quang Dũng muốn nói rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho
quê hương thì sự ra đi của họ cũng nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với
đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người
chiến sỹ ngự trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hy sinh ở nơi xa nhưng
linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi sự bi thảm
vốn có. Anh chiến sỹ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi
hát lên tiễn đưa anh:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Không hề có tiếng khóc, giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông,
đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hòa vào sông,
hòa vào đất mẹ.
Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ
phai trong tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm
đậm mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta.
Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu
ấn trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều lần mà ta lại quên đi
nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy là Tây
Tiến!
Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sang với cả hào khí dân
tộc.
Trương Thị Mai Hạnh
(Trường THPT chuyên Bình Định, 15 điểm, giải nhì)
·
Nhận xét:
Hiểu và cảm nhận khá sâu sắc nội dung nghệ thuật bài thơ. Biết khai
thác những nét đặc sắc nhất trong bài. Văn mạch trong sang, có hình
ảnh và cảm xúc.
Có nhiều lời bình táo bạo song có lý nên rất hấp dẫn.