Phân tích nhân vật Mị trong truyện “Vợ chồng A Phủ”
I . Mở bài
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng
tác phẩm đạt kỉ lục .Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất
trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông .Tác phẩm có
một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể . Truyện viết về cuộc
sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn
bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi . Đặc biệt truyện đã xây
dựng thành công nhân vật Mị , qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức
sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc
.
II. Thân bài
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được
tặng giải nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác
phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với
bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952 .
Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh
tình đầy nghịc lý và cuốn hút độc giả :
“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có
một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa .
Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay
đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười
rượi” .
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ
loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu
ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao
mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau
khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng .
Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp . Mị có nhan sắc, và có
khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi , uốn chiếc lá trên môi, thổi
lá cũng hay như thổi sáo” . Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao
cuộc sống, khát khao yêu đương . Quả thế, Mị đã được yêu, và đã
khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước
âm thah hò hẹn của người yêu .
Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời
bạc mệnh . Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu
sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí .
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy,
con người với danh nghĩa là con dâu , nhưng thực chất chính là tôi
tớ . Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa
làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà
con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”
.
Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị .
Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm ,
“lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn
buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi
trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là
sương hay là nắng . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam
hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân
và sức sống của cô . Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở
đây đã được cất lên nhân danh quyền sống . Cái chế độ ấy đáng lên
án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của
niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống .
Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ
của người cha . Nhưng dến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn
nữa thì Mị lại buông trôi , kéo dài mãi sự tồn taịi vật vờ . Chính
lúc này cô gái còn đáng thương hơn . Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn
muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng,
còn thiết sống . Còn khi đã không thiết chết , nghĩa là sự tha
thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi
nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn
của Mị mà thôi .
Sức sống của Mị dường như mất đi . Nhưng bên trong cái hình ảnh con
rùa lầm lũi kia dang còn một con người . Khát vọng hnạh phúc có thể
bị vùi lấp , bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai
cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan . Gặp thời cơ thuận
lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy
lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi
của tình yêu .
Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người
tuổi trẻ . Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc
kì ảo của các lòai hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong
một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ . Tác nhân quan
trọng là hơi rượu . Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống
từng bát , “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi . Cái say cùng
lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ . Mị lãng quên thực tại
(nhìn mọi người nhảy đồng , người hát mà không nghe, không thấy và
cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước
(ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn
nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người
: “Mị vẫn còn trẻ . Mị muốn đi chơi . Bao nhiêu người có chồng cũng
đi chơi ngày Tết . Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà
vẫn phải ở với nhau” nhau” .
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh
bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng
sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi
trẻ . Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của
người thiếu phụ .
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận .
Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn
. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng , ngồi
xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng . Và khi lòng
ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi .
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần
, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị,
cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác : “Mị muốn đi
chơi . Mị cũng sắp đi chơi” . Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành
động như một kẻ mộng du : quấn lại tóc , với thêm cái váy hoa, rồi
rút thêm cái áo . Tất cả những việc đó , Mị đã làm như trog một
giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy
A Sử hỏi “.
Rồi cái gì đến đã đến . A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác
thêm vòng bạc đi chơi , bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang
chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh
trong cảm giác du xuân . Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại
ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức
giấc mơ của kẻ mộng du . Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ
cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không
cựa được . Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra
cũng vậy . Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh,
giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp
vách, nhai cỏ , gãi chân . Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại,
tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về
với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn
trước .
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi
trói cho A Phủ . Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài
phong kiến miền núi . Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa
tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở
thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí . Và bản năng của một người
con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ
tới hiện thực phũ phàng : bị trói đứng . Và chính hoàn cảnh bi
thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị . Nhưng
tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả
của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô
. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt : “A Phủ là
cái xác chết đứng đó cũng thế thôi” . Câu văn như một minh chứng sự
tê dại trong tâm hồn Mị . Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt
:“Đêm ấy A Phủ khóc . Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm
má đã xạm đen” . Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm
tràn đầy cốc nước . Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ . Mị
nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực . Mị cũng đã
khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được . A
Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra
mình, xót thương cho mình .
Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau
khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình . Từ sự
thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với
một con người cùng cảnh ngộ . Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương
mình : “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi
còn người kia việc gì mà phải chết ” . Mị cởi trói cho A Phủ để rồi
bất ngờ chạy theo A Phủ . Lòng ham sống của một con người như được
thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình.
Mị như tìm lại được con người thật , một con người còn đầy sức sống
và khát vọng thay đổi số phận .
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông
cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra
vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị
.
III . Kết bài
Vợ chồng A Phủ qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời , số phận , tính
cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến ,
thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi .
Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc , sức sống
mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động . Đặc biệt đề cao sự
đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ .
Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của
Vợ chồng A Phủ .