Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, là kết quả
của chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 – 1960 của nhà văn,
in trong tập bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con
người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con
sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Trong những ngày tháng cả nước rộn rang lên đường theo tiếng gọi
của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có
biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với
cách mạng. Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân –
cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang lại những
tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút
Người lái đò sông Đà – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc
phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.Đến với nghệ thuật, đối với
Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi vì “nhà văn là
người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay
giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính
vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm,
làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những
điều mới lạ.
Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn Tuân đã bôn ba
trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê
hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời
đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh
thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây
dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói đến Tây Bắc là để “đi tìm
cái thứ vàng mười của màu sắc song núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ
vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay
đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng
sủa tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu
nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi
vốn ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo
về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…
Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những
trang văn của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng
phong, bão tố. Nhưng không vì thế mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ
mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng
cũng vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một,
có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch
trận”…”Nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ
ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền
nào nhô vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái hung hãn
dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Miêu tả
con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên
mềm mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo
đốt nương xuân”…
Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong
cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta
thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò
sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những cuộc
chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không ưa xuôi thuyền
trên dòng sông êm ả…
Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai
trạng thái đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa
hung bạo, vừa là “kẻ thù , vừa là “cố nhân”. Dưới ngòi bút tác giả,
con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng
những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc.
Ông lái đò cũngthế cũng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét và sắc
sảo… Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”.
Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của
tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút
Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài
hoa nghệ sĩ.
Nét đẹp sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó
vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng
tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao
nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà cũng thế. “Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi
vì rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là
một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ da
diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại
sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại
cố nhân. “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau
kì kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Và trong cái đẹp đẽ, thơ mộng của đất trời thiên nhiên, con người
xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái điều khiển con thuyền
một cách chủ động và thuần thục. Ông bao giờ cũng đứng trên thác
sóng dữ dội mà bắt chúng phải qui hàng. “Nắm chặt lấy được cái bờm
sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước
đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về
phía cửa đá ấy”. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển
chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon.
“Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách
Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác
phẩm bằng cách quay về với quá khứ, với một thời vang bóng đã qua.
Nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, quản ngục mang tâm
trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng một
thời” là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”. Nhưng
sau cách mạng, Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những
con người lao động hết sức bình dị, gần gũi.
Huấn Cao giờ đây đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông lái đò cả
đời gắn bó với công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh
trên sóng nước, chiến đấu với tử thần bằng cây sào bé nhỏ gây xiết
bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân đã trao tặng ông
chiếc huy chương anh hùng lao động trên ngực như một niềm hãnh diện
thiêng liêng. Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người
nghệ sĩ tài hoa trí dũng song toàn. Miêu tả hình ảnh người đời
thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm
phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.
Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và người lái đò,
Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ
thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Mọi vật, mọi sự như
hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động. “Ngoặt khúc sông lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm thanh sóng vỗ
vào đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn
quay phim táo tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng
trành” rồi lao xuống “đáy hút sông Đà” để quay phim… Tất cả những
gì nhà văn viết ra, những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo nên
đều như được dựng lại trước người đọc. Tiếp xúc với tác phẩm Người
lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta như đang đứng trước con sông ấy,
chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, chứng kiến từng
đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn
sông êm ả, trữ tình.
Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, võ
học… Cuộc chiến đấu giữa người lái với thạch trận sông Đà diễn ra
thật hấp dẫn, li kì: “Mặt nước hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc
gối vào bụng và hông thuyền”. Nó “bám lấy thuyền như đô vật túm
thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả những từ ngữ và hình
ảnh mang đậm nét “quân sự, võ thuật” ấy như gợi lại trước mắt ta
quan cảnh một cuộc hỗn chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.
Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên
bác. Nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí,
sinh học… thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm. Với Người
lái đò sông Đà, tác giả đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ
quốc. Vị trí sông Đà, lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới
thiệu bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh
được tác giả nhắc đến trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La,Hát
Loóng… Tất cả, tất cả chứng tỏ sự hiểu biết rất rộng và rất sâu của
tác giả khi viết về sông Đà…
Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú.
Mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa
cẩn thận. Ông đã sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng
văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự
nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên những trang văn đầy tài hoa
và lịch lãm mà ông còn sáng tạo nên những trang thơ cho đời. Đọc
những dòng viết về con sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng,
ngạc nhiên trước giọng văn êm ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn
Tuân.
Viết về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc,
Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với
người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh
động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong công việc ta càng
thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn – Người lao động
trong tác phẩm Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến hình dáng,
cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn
Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ
sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con
thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động
hăng hái, quên mình vì công việc.
Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày,
mây vẫn bay và gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại
cho ta một thế giới mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng cũng
là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn
chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền
bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của
sự tài hoa và uyên bác…