Phân tích tác phẩm “Rừng xà nu” (của hs giỏi)
Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành – bút danh
Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm
kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng
chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn
Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm
này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây
Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác
phẩm chính là hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn
“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta
bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây
xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày
của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia
đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi
sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội…”. Tất cả mọi hoạt động dù
lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà
nu. Sự sống của dân làng Xô Man đều gắn liền với những cánh rừng xà
nu. Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn
giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và
xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy.
Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu,
cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của
thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết.
Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả
những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác,
cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít
có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy… ít có loài cây nào
ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn
được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như
bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ
dội “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị
thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như
một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt,
long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện
thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt
của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt
“cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh
rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên
mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến
tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt
đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên
hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai ba năm sau, rừng
xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô
man”.
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã
dựng lên thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà
nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây
xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng đôi với con người mảnh đất
Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng và khí trời,
thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân
cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà
nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân
Tây Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra.
Bao nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt
ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong
mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người
trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội
ác dã man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn
những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.
Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt
Nam vẫn ý thức được rằng:
“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. Ánh
sáng của niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ
lối cho những bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống,
thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi thay
họ tiếp tế nuôi quân đã có T’Nú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ
người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay
nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước của
dân làng Xô man nói riêng và của người Tây Nguyên nói chung.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên
sừng sững, đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô
man. Gắn bó vớ với cánh rừng anh dũng, kiêu hùng, những người dân
Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để đứng lên chiến đấu. Và
gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung dũng như
thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống
bình yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào
những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những
người dân vô tội lầm than.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm
chất, số phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong
tác phẩm mang đậm chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư
tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng một hình tượng xà
nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn miêu tả,
những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh,
nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh
hoạt.
Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ
đẹp hình tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một
“Rừng xà nu” trọn vẹn, mang đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành
đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học dân tộc.