Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.
Đọc Vợ nhặt của Kim Lân tôi lại nhớ đến “Một đám cưới nghèo” của
Nam Cao với những
bóng đen lầm lũi đi trong màn sương chiều nhập nhoạng. Cái đói, cái
nghèo ấy sao đầy kinh
hoàng và u ám đến thế. Chính cái đói, cái nghèo đó tạo nên cho Vợ
nhặt một tình huống hết sức
độc đáo và hấp dẫn. Và vì thế, Kim Lân đã đóng góp một truyện ngắn
vào loại hay nhất trong văn
học Việt Nam hiện đại
Ngay từ tựa đề của tác phẩm cũng gợi lên sự chua xót, miả mai, một
nỗi đau không thể nói
thành lời. “Nhặt vợ”, một hành động nghe sao đơn giản và dễ dàng
đến như vậy? Điều đó hoàn
toàn trái ngược với quan niệm của dân gian:
Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Vậy mà ở đây Tràng đã nhặt được vợ hẳn hoi, trong cơn đói khủng
khiếp mà có lẽ “đến
năm 2000 con cháu chúng ta vẫn kể cho nhau nghe để rùng mình” đang
hoành hành. Cái lạ
thường, kì dị của hành động đã tạo nên một tình huống vô cùng độc
đáo mang ý nghĩa chi phối
toàn bộ tác phẩm.
Đã từ lâu, dân làng cái xóm ngụ cư này đã quá quen với hình ảnh vập
vạp, thô kệch của Tràng với
cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng nở trên môi, Tràng nghèo
túng, xấu xí hơn cả những
con người tồi tàn, bèo bọt ở cái xóm làng thì làm gì có thể lấy
được vợ? Thế nhưng hôm nay, bên
cạnh cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn lại có cả một người đàn
bà rón rén và e thẹn. Điều đó
gợi nên sự kinh ngạc cho cả xóm. Sự tò mò, xoi mói cứ lan dần theo
từng bước đi của Tràng và
người đàn bà trên con đường xao xác, heo hút. Mọi người cứ xì xầm
bàn tán “Ai đấy nhỉ ! Hay là
người nhà bà cụ Tứ mới lên?” “Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ
có thấy họ mạc nào lên
thăm đâu?” thỉnh thoảng lại “rung rúc” vang lên tiếng cười đầy ghê
rợn như tiếng cú báo hiệu tai
ương và chết chóc vọng mãi theo đôi uyên ương về cuối xóm. Mặc cho
những lời bàn tán, Tràng
vẫn lầm lũi bước dưới những gốc gạo sù sì có “bóng những người đói
đi lặng lẽ như những bóng
ma thay cho khách” và tiếng quạ gào lên thê thiết từng hồi thay cho
pháo cưới. Câu chuyện chìm
trong nặng nề và sợ hãi, đầy những cảnh ma quái, đen tối. Cái đói
đã luồn những làn gió chết chóc
mọi nơi. Vậy mà Tràng lại có vợ “Ôi chao! Biết có nuôi nổi nhau qua
được cái thời này không”
Tình huống Tràng có vợ gây ra ấn tượng rất mạnh. Cả xóm ngạc nhiên
đã đành, mà ngay
cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững
sờ của bà khi trông thấy
người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình bằng
u nữa. Bà không thể nghĩ
rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà
cứ hấp háy cặp mắt cho đỡ
nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra.
Tình huống càng bất ngờ đến hài hước khi chính Tràng cũng vẫn còn
“ngỡ ngàng”. “Ngồi
ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải. Ra
hắn đã có vợ đấy ư?”. Mọi
chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ. Người đàn bà
chỉ gặp mới hai lần lại trở
thành vợ hắn. Mà thật ra, hắn cũng không có ý định gì với thị…Thị
liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng
một câu nói suông. Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã
đẩy họ đến với nhau.
Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống
oái oăm. Ta sẽ mừng
hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này? Tâm trạng của những nhân
vật trong câu chuyện chứa
đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ Tứ vui vì cuối
cùng con mình cũng có vợ
nhưng lại tủi vì sự trớ trên của số phận : có phải thời “tao đoạn”
như thế, người ta mới chịu lấy
con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai của con
mình, “liệu chúng nó có nuôi
nhau nổi sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ tận đáy
lòng của bà mẹ “chất chứa
nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự
rình rập trước ngõ của cơn ác
mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm
thấy cả nỗi buồn của một
người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không được một vài mâm
làm lễ gia tiên. Trong
lời nghẹn ngoài tâm sự của bà có cả sự xót xa, một chút ân hận vì
đã không làm được đầy đủ bổn
phận của một người mẹ đối với con.
Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục từ khi thị quyết định
theo hắn về nhà. Tình
huống nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ bằng những câu bông lơn và
bốn bát bánh đúc, thị đã đồng
ý làm bạn với hắn. Thị theo hắn dường như để giải quyết nhu cầu ăn.
Những chuyện tưởng như rất
thô lậu và trơ trẽn nhưng dưới ngọi bút tài tình của Kim Lân, nó
trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp ló
tình thương. Tràng hoàn toàn mờ mịt về tương lai của mình “thóc gạo
này đến thân mình còn chả
biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng” nhưng hắn vẫn ra tay cưu
mang người đàn bà nghèo khổ.
Đói kém đã đẩy đưa người phụ nữ đến với hắn, mang đến cho hắn niềm
hạnh phúc của một người
có được mái ấm gia đình với bao ước mơ về tương lai dung dị nhưng
đầy cảm động. Chính vì thế,
hắn nhận ra trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc mà mình vừa có
được. Lòng hắn chợt loé lên
một ý nghĩa được đổi đời, tự dưng hắn thấy ân hận , tiếc rẻ, vẩn
vơ, khó hiểu.
Không cần dùng đến những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác
phẩm Vợ nhặt
mang đến một giá trị nhân bản vô cùng to lớn. Bằng tình huống đầy
bi hài, nó xoáy vào tố cáo chế
độ thực dân phát xít, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái đói kinh
hoàng. Cái đói mang đến sự chết
chóc, tang thương khắp mọi nơi và cũng chính nó làm những giá trị
con người bị hạ xuống mức
thấp nhất. Con người dường như mất hẳn tính người, chỉ còn sống
theo bản năng để được ăn,
được sống…Cơn đói khát làm cho ngừoi đàn bà quên cả sĩ diện, được
mời ăn “hai con mắt trũng
hoáy của thị sáng lên” tức thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị
cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai có lương
tâm cũng phải xấu hổ, phải
quay mặt đi để cười ra nước mắt. Thì làm ta liên tưởng đến bà lão
trong Một bữa no của Nam
Cao. Con người trở nên trơ trẽn, mất nhân cách khi cái đói lởn vởn
trong tâm trí. Giận thị nhưng
ta vẫn xót xa trước dáng hình tiều tụy của thị “hôm nay thị rách
quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị
gầy sọp đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai
con mắt”. Cái đói, với bóng đen
kinh hoàng của nó bao trùm khắp mọi nơi, đè nặng lên cuộc sống bình
thường của mỗi con người.
Còn gì thê thảm bằng đám “rước dâu” có tiếng quạ kêu thê thiết đón
chào, đêm tân hôn có tiếng ai
hờ khóc tỉ tê “có mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo
gió thoảng vào khét lẹt”. Thân
phận bọt bèo của những con người như Tràng, những cám cảnh bần cùng
ấy tự thân nó đã có sức
tố cáo mạnh mẽ cái tội ác của thực dân phát xít….
Thế nhưng, chính trong cái cảnh thê lương ấy, những tấm lòng nhân
hậu lại sáng ngời lên
mà tiêu biểu trong tác phẩm là bà cụ Tứ. Trong lòng người mẹ nghèo
ấy lúc nào cũng mang sẵn
tình thương con vô bờ bến “vừa ai oán vừa xót xa cho số kiếp của
đứa con mình”. Trong cái nhìn
đăm đăm vào người đàn bà đang “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã
rách bợt” có sự xót thương,
thông cảm sẻ chia. Tình thương con dù bao la đến mấy cũng có thể
chỉ làm bà “rủ xuống hai dòng
nước mắt”. Cái khổ đau vất vả một đời đã vắt kiệt nước mắt người
mẹ. Nó không đủ để chảy
thành dòng “rủ” xuống như chết non một cách tức tưởi. Không còn
nước mắt nhưng bà vẫn nhận
lấy nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa.
Bằng ngòi bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc
đến tận cùng màn đêm
tối tăm, u ám, nhưng rồi lại nhẹ nhàng hé ra một khe sáng lấp ló
đâu đó khiến chúng ta hướng về
và vươn tới. Người dân Việt nam mà đại diện là những bà mẹ Tràng,
anh Tràng và người đàn bà
vẫn khát khao cuộc sống hạnh phúc tươi sáng hơn. “Bà lão nói toàn
chuyện vui, chuyện sung
sướng sau này”. Trong tâm trí bà đã có sẵn một viễn cảnh tươi sáng
gia đình. Niềm vui làm bà mẹ
Tràng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường , “cái mặt bủng beo u ám của
bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta vui
lây niềm vui của gia đình hoà thuận, đầm ấm, niềm vui của Tràng
được thấy xung quanh mình
hôm nay có gì vừa thay đổi mới mẻ, khác thường. Niềm vui bất chợt
của gia đình làm ta cười
sung sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn ngào. Ta múôn tha
thứ tất cả, kể cả sự trơ
tráo của người đàn bà và cả tội phung phí đến hai hào dầu của anh
Tràng.
Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều.
Mỗi ý nghĩ của tình
huống lại mang một giá trị nhân bản,tấm lòng nhân đạo bao la của
nhà văn. Chính vì thế, tác
phẩm mang đầy tình yêu thương nồng ấm như một ngọn lửa nhỏ lấp loé
mãi trong cuộc đời. Và
tác phẩm đã cho ta phát hiện thêm một bản chất tuyệt vời nhân hậu.,
tuyệt vời đức hi sinh của
những người nông dân Việt Nam. Dù đứng trước sự mất còn của mạng
sống ( hiểu theo nghĩa đen
trần trụi nhất) vẫn cưu mạng, vẫn lấy lại phẩm giá để làm người, để
sống với hi vọng, với tương
lai. Lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh dẫn đoàn người đói khát đi phá
kho thóc của Nhật đâu chỉ là
mộng tưởng. Cách mạng đã gần kề, suối nguồn của chủ nghĩa nhân đạo
sẽ làm sáng lên những
con người bình dị nhưng có phẩm chất nhân đạo như cụ Tứ, như Tràng
và cô “vợ nhặt” tội
nghiệp….Họ sẽ viết tiếp truyện thống về phẩm giá con người Việt Nam
trong tương lai